Chùa Nổi

Yên Bình
thangttvtyb@gmail.com
0984905927

Dịch vụ

Mô tả

Theo những người dân nơi đây kể lại: Chùa Nổi nằm trên vị thế đất cao ở giữa cánh đồng. Vào những mùa mưa, lũ lụt thì ngôi chùa không bị ngập, từ xa nhìn lại có cảm giác ngôi chùa như đang nổi bồng bềnh trên mặt nước. Có lẽ tên gọi chùa nổi xuất phát từ những lý do này. Chùa còn có tên gọi khác là chùa Đồng Nếp.

Tên gọi Đồng Nếp gắn liền với tên gọi địa danh thôn Đồng Nếp. Theo các cụ cao niên tại địa phương cho biết: Xưa kia những cánh đồng lúa bao quanh ngôi chùa này người dân chỉ trồng lúa nếp. Nên những người dân nơi đây vẫn hay gọi một cách dễ nhớ là chùa Đồng Nếp.

Vùng đất này có một quá trình hình thành tồn tại và phát triển lâu dài với nhiều sự thay đổi về địa danh, địa giới:

Thời Hùng Vương, vùng đất này thuộc bộ Tân Hưng, nước Văn Lang.

Thời Bắc thuộc đất quận Giao Chỉ.

Thời Trần thuộc lộ Tam Giang,Quốc Oai, Tam Đái

Thời thuộc Minh thuộc châu Tuyên Giang, phủ Tam Giang

Đời Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước (1469), vùng đất này thuộc phủ Đoan Hùng, thừa tuyên Sơn Tây

Cũng thời gian này phủ Đoan Hùng gồm có 5 huyện: Đông Lan, Tam Dương, Để Giang, Tây Lan, Đang Đạo. Vùng đất này thuộc huyện Tây Lan, phủ Đoan hùng, thừa tuyên Sơn Tây.

Đời Lê Cảnh Thống (1498-1504), đổi huyện Tây Lan thành huyện Tây Quan. Vùng đất này thuộc xã Đại Thân, tổng Đại Thân, huyện Tây Quan, phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây.

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), chia đặt tỉnh hạt, đặt trấn Sơn Tây làm tỉnh Sơn Tây. Vùng đất này thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Sơn Tây.

Năm 1967, thực hiện việc chuyển dân xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà. Xã Đại Minh lúc đó thuộc huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ được bàn giao sáp nhập vào huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Địa danh xã Đại Minh được giữ nguyên cho đến nay.

Khoảng cách từ trung tâm thành phố Yên Bái đến khu di tích Chùa Nổi thuộc xã Đại Minh, huyện Yên Bình là 35km.

- Đường đến di tích: đi từ ngã ba Cát Lem, quốc lộ 70 (Km30) Yên Bái - Hà Nội, rẽ quốc lộ 37 Cát Lem - Thác Bà, đi 4km đến trụ sở UBND xã Đại Minh, sau đó rẽ phải vào đường liên thôn khoảng 1km đến di tích chùa Nổi.

- Đi theo tuyến đường Đông Hồ (quốc lộ 37) Lục Yên - Yên Bình đến trụ sở UBND xã Đại Minh sau đó theo đường liên thôn 1 km là đến .

Di tích Chùa Nổi xã Đại Minh được hình thành khá sớm gắn liền với sự phát triển Phật giáo dọc theo tuyến sông Chảy và vùng văn hóa Châu Thu Vật.

Thời Lý, Trần thế kỷ XI – XIV, Phật giáo phát triển cực thịnh và được coi là Quốc giáo. Nhiều công trình Phật giáo được xây dựng đến từng làng, xã trên khắp đất nước. Từ năm 1225 đến 1258 Trần Cảnh lên ngôi đã xuống chiếu cho các địa phương có đình trạm phải vẽ, tô tượng phật đặt thờ trong đó nhằm đáp ứng sự quảng bá của đạo Phật. Một loạt các đình, chùa, đền có niên đại Trần thuộc địa bàn Châu Thu, Châu Lục Yên và các vùng lân cận được xây dựng và tu bổ trong giai đoạn này: quần thể đền, chùa Hắc Y, Chùa hang Úc thuộc huyện Lục Yên; Chùa Làng Thành, chùa Đồng Do, Chùa Bắp, Chùa Trấu, Chùa Nổi… thuộc huyện Yên Bình.

Vùng đất Đại Minh trước đây nằm ở cuối của tỉnh Sơn Tây, dọc theo tuyến sông Chảy trên tuyến đường thông thương huyết mạch nối giữa Giao Chỉ và vùng Hoa Nam (Trung Quốc). Đặc biệt vùng đất này nằm tiếp giáp với vùng văn hóa Châu Thu (Châu Thu Vật), là trung tâm chính trị, hành chính hàng đầu của phủ An Bình, sứ Tuyên Quang.

Năm 1962 ,trong quá trình khảo sát thực địa trên địa bàn tỉnh Yên Bái, đã phát hiện nhiều hiện vật cổ liên quan đến phế tích kiến trúc tôn giáo (chùa) thuộc xã Đại Minh. Trong đó nổi bật có di vật đầu cá chép chất liệu đất nung được phát hiện ở khu phế tích Chùa Nổi thuộc thôn Đồng Nếp. Theo TS. khảo cổ học Nguyễn Văn Quang-Giám đốc Bảo tàng tỉnh Yên Bái: “đây là một phần hiện vật của con cá chép với chất liệu đất nung, mang phong cách đặc trưng của mỹ thuật thời Trần thế kỷ XIII-XIV”. Hiện vật đầu Cá chép trong văn hóa thời nhà Trần là một phần của kiến trúc tôn giáo (phật giáo). Có thể nói di tích Chùa Nổi thuộc xã Đại Minh có lịch sử hình thành và phát triển khá sớm, gắn liền sự phát triển của vùng văn hóa Châu Thu Vật cũng như quá trình hình thành và phát triển phật giáo châu Thu Vật.

Các nhân vật thờ tự

- Lớp thứ nhất: Trên cùng là tượng Tam thế gồm ba pho tượng, bên trái là Quá khứ thế, ở giữa là Hiện tại thế, bên phải là Vị lai thế. Tên đầy đủ là Tam thế tam thiên phật (ba nghìn vị phật thời quá khứ hiện tại và tương lai).

- Lớp thứ hai: Tượng bộ Di đà tam môn, trong đó phật A Di Đà ở giữa; tượng Đại bi Quan thế âm bồ tát ở bên trái; tượng Đại lực Đại thế chí bồ tát ở bên phải. Bộ này còn gọi là Tây Phương/Hoa nghiêm tam Thánh, trong đó: Phật A di đà thể hiện tính bát đại, tuyên ngôn của đạo Phật là từ tâm và trí tuệ; Quan thế âm bồ tát: Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả (bốn tính thuộc từ tâm); Đại thế chí bồ tát: Đại hùng, đại lực, đại trí, đại dũng (bốn tính thuộc trí tuệ). A di đà là vị phật ở Tây phương cực lạc, có chức năng tiếp dẫn linh hồn nhưng vì ít xuống trần gian nên phải nhờ đến hai vị bồ tát của mình.

- Lớp thứ 3: gồm tượng Bồ tát Thiên Thủ Thiên Nhãn mỗi bàn tay đều có con mắt trí tuệ, trong tay cầm nhiều pháp khí dùng hàng phục ma chướng, những cánh tay cầm kiếm, búa, tràng hoa, châu báu, vải lụa gấm vóc, hoa sen, bánh xe pháp, bình tịnh thủy, chày kim cang.. cũng tượng trưng cho mọi ngành nghề trong cuộc sống trên thế gian này. Bồ tát Thiên Thủ Thiên Nhãn còn có danh hiệu Bồ tát Chuẩn Đề. Qua hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn chúng ta cũng có thể thấy được ý nghĩa Công Đức và Phước Đức. Với tư tưởng giải thoát rốt ráo tuyệt đối của đạo Phật, nhận thức tâm lý con người ở thế gian thân, miệng, ý là nguyên nhân tạo những nghiệp thiện hay ác qua nhiều kiếp luân hồi, chỉ có tu hạnh bồ tát mới chuyển đổi được nhân quả.

- Lớp thứ 4: Tượng Cửu Long, tượng này theo điển nói khi đức Thích Ca Mầu Ni mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất mà nói rằng: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn. Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là quí hơn cả” Bởi vậy tượng Cửu-long làm chín con rồng vây bọc chung quanh và ở trên những đám mây có chư Phật chư thiên, nhã nhạc, cờ phướn và bát bộ Kim Cương, ở giưã có pho tượng nhỏ, đứng một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật lúc sơ sinh.

          - Hai bên ban thờ Phật là tượng Đức ÔngThánh Hiền:

          Tượng Đức Ông ở bên phải, ăn mặc lối võ quan. Đức ông tên là Tu đạt Cấp Cô Độc, mua vườn của thái tử Kỳ Đà cho đức Thích Ca Mâu Ni giảng đạo. Thái tử yêu cầu ông về đúc gạch vàng để lát vườn đến đâu đó là đất phật. Kết quả là xây nên vườn Lộc uyển-vườn Nai-là nơi Đức Thích Ca giảng đạo và Tăng đoàn học tập.

          - Tượng Thánh Hiền ở bên phải, Thánh hiền là cách gọi dân gian, đây là Ananđà dịch nghĩa là Hoan hỉ (anh họ của Đức Thích Ca Mâu Ni), vừa là đệ tử thứ hai của Đức Thích Ca Mâu Ni vừa được mệnh danh là đệ nhất Đa văn Thánh giáo (Nghe nhiều lời dạy của Đức Thích Ca Mâu Ni nhất trong tăng đoàn), là người có công kết tập kinh điển của phật. Trong một lần đi khất thực, ngài gặp một phụ nữ yêu mình say đắm. Ngài gắng gượng vượt qua và hỏi phật Thích Ca, Phật Thích Ca liền nói hãy biến tình yêu đôi lứa thành tình yêu đạo pháp, liền xin cho cô gái đó được xuất gia, từ đó xuất hiện hàng ni trong tu hành.

          - Phía ngoài cửa chùa là tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát, một đức Bồ Tát đại từ đại bi thệ nguyện độ thế rất rộng lớn. Ngài là giáo chủ của cõi U Minh. Địa: đất. Tạng: trùm chứa Bồ Tát có lập đại nguyện tế độ tất cả chúng sinh cũng như đất chở muôn sự muôn vật nên gọi là Địa.

Tuy ngài hiện thân ở Hằng Hà sa số thế giới, độ vô số chúng sinh, mà không một thế giới nào, một chúng sinh nào ra ngoài tự tâm của ngài nên gọi là Tạng.

Trong khi phát tâm ngài có nguyện rằng: "Địa Ngục mà còn chúng sinh thì ngài chẳng thành Phật". Vậy nên ngài hóa thân trong Lục Đạo mà độ chúng sinh.

 Những di vật còn lại của di tích

* Đầu cá chép:

- Dài: 24 cm

- Rộng: 15 cm

- Nặng: 3.100 g

- Chất liệu: đất nung.

- Niên đại khoảng thế kỷ XIII-XIV đời nhà Trần.

- Xác định đây là cá chép hóa rồng. Đầu cá được trang trí đầu máng xối, thường được đặt trên phần góc mái của chùa. Phần bờm có trang trí các họa tiết hình lá, với hai mắt tròn to

* Tảng đá kê chân cột:

Với chiều 40cm, rộng 40cm, đường kính bề mặt 25cm. Tảng đá kê chân cột của chùa là phiến đá tự nhiên, đặc trưng loại vật liệu thường thấy ở các kiến trúc cổ vùng miền núi.

* Giếng chùa:

Giếng chùa nằm cách khu vực chùa khoảng 300m. Đường kính miệng giếng 70cm, sâu khoảng 4 đến 4,5m, tang giếng làm bằng gỗ. Trải qua thời gian lâu ngày không sử dụng, hiện nước giếng đục, không trong như trước. Những người dân quanh vùng kè bê tông xung quanh bảo vệ tránh sụt, lấp miệng giếng.

Lễ Thượng Nguyên được tổ chức ngày Rẳm tháng Giêng. Vào ngày này ai đến chùa đều lễ Phật cầu an cho gia đình, dòng họ, đất nước được thái bình, an lạc. Đây cũng là ngày mà Phật tử về chùa lễ Phật, sám hổi, phát nguyện, nỗ lực tinh tấn tu tập mong trọn vẹn năm ấy được phúc lành.

 Lễ Phật Đản

Lễ Phật Đản được tổ chức vào ngày 14/4-15/4 (âm lịch).

Vào ngày chính lễ nhà chùa cùng các phật tử và bà con nhân dân chuẩn bị các đồ cúng chay như: hoa, quả, chè lam, oản, bánh…là những sản phẩm do chính tay người dân làm ra. Những nguyên liệu như gạo, nước dùng làm bánh đều được lựa chọn và cất giữ tại kho riêng. Gạo phải hạt to, tròn; nước phải là được lấy từ giếng chùa để làm bánh và oản. Khâu quan trọng nhất chuẩn bị nước thơm (nước thơm là sự kết hợp từ lá sen, các loại hoa và thảo dược từ thiên nhiên) để “tắm tượng”.

Lễ Phật Đản tại Chùa Nổi diễn ra trong khoảng thời gian từ 7 đến 10 giờ. Trong đó nổi bật lên là nghi lễ “tắm tượng”. Các phật tử từ 50 tuổi trở lên tập trung tại gian chính giữa quanh chiếc chậu có nước thơm được đặt trên một giá cao trang trọng. Đến khoảng 10 giờ, nghi thức tắm tượng mới chính thức diễn ra. Tượng phật Thích Ca được các phật tử dội nước lá sen từ vai xuống. Lễ tắm Phật bắt nguồn từ sự tích đức Phật đản sinh, tương truyền có 9 vị rồng thần tới phun nước tắm rửa cho ngài. Cùng với nước là hương hoa từ trời rơi xuống làm thanh tịnh thân Phật. Khi công tác hoàn tất Đức phật Thích Ca được đưa về đúng vị trí, nhà chùa bắt đầu phát lộc cho từng gia đình.

Những điều tuyệt diệu là vị Phật sơ sinh trước khi tắm, vốn là một em bé thanh tịnh vô nhiễm. Lấy nước tắm lên mình phật như là một hành động tẩy trừ sự ô nhiễm nơi thân phật, cũng như cho các phật tử.

Lễ Vu Lan-Báo hiếu

Khi nhắc đến hai từ Vu Lan, bất kỳ người con hiếu thảo nào cũng chợt se lòng, bởi lẽ phật tính trong những tấm lòng hiếu hạnh một lần nữa được hâm nóng. Tuy nhiên, hiện nay không phải ai cũng biết nguồn gốc của ngày lễ trọng đại này.

Rằm tháng Bảy (15/7), được giới tăng ni Phật tử gọi là lễ Vu Lan, là dịp đặc biệt để con cái báo hiếu bậc sinh thành và tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng, Rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân, nhà nhà bày mâm cao cỗ đầy để cúng chúng sinh.

Vu Lan, tên gọi tắt của Vu Lan bồn, được phiên âm từ tiếng Phạn là “Ulambana”, nghĩa là “Cứu đảo huyền”, tức cứu người bị tội treo ngược.

Lễ Vu Lan có duyên khởi từ Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ mình ra khỏi ngạ quỷ. Cho nên, hàng năm, ngày lễ Vu Lan nhắc nhở con người ta tưởng nhớ công ơn cha mẹ, ở kiếp này và các kiếp trước.

Vào ngày này các phật tử cùng bà con dân làng lên chùa với ước vọng cầu siêu mong cho các linh hồn ông, bà, cha, mẹ được siêu thoát. Đây chính là truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam và đạo lý tri ân với cha mẹ, ông bà, tổ tiên theo lời đức Phật dạy.

Những ngày này là bà con dân làng tới đây cũng để nguyện cầu quốc thái dân an, tri ân công đức của các anh hùng liệt sĩ.

Chùa Nổi cũng như các chùa vùng Bắc Bộ. Chùa được xây dựng theo thuật phong thủy trên một thế đất cao hòa quyện với quang cảnh thiên nhiên có cảnh quan xung quanh rộng rãi và thoáng mát. Đứng trên chùa ta có thể quan sát thấy toàn bộ quang cảnh sơn thủy hữu tình và toàn bộ cảnh sinh hoạt của nhân dân trong xã.

Phía bên trái là ruộng chùa thuộc thôn Đồng Nếp có nguồn nước từ gò Thiều chảy ra phục vụ cho công tác tưới, tiêu.

Phía bên phải là dải đồi chạy về phía sau, có nhiều cây to và cây ăn quả.

Phía trước mặt là cánh đồng lúa, cách khoảng 300m là một gò cao gọi là gò đình.

Chùa Nổi chính là địa điểm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của dân làng xã, cũng như là nơi cầu may trong dịp năm mới.

Các cụ cao niên tại địa phương kể lại rằng: Chùa Nổi xưa kia có kiến trúc hình chữ Đinh , gồm hậu cung nối liền 3 gian, mái lợp ngói cánh sen, cột gỗ. Chùa được thiết kế tuần tự, hài hòa từ: sân chùa, bái đường, chính diện, hành lang đến hậu đường, các hoa văn rồng phượng được trang trí kỳ công trên từng đầu xà, đầu dư... Phía trên phần mái là hình tượng cá chép hóa rồng, phía trước sân chùa rộng thoáng có nhiều cây lớn bao phủ. Những kết hợp đó tạo cho chùa Nổi những dấu ấn riêng, khắc sâu trong tiềm thức của mỗi người dân nơi đây.

Do nhu cầu về tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, năm 2008 Chùa Nổi được xây dựng lại dựa trên nền cũ với kiến trúc hình chữ Đinh gồm 1 gian hậu cung nối liền với 3 gian tiền đường. Phần mái lợp ngói cánh sen, tường xây, các hoa văn được trang trí tinh sảo trên phần mái và các đầu xà…. nhà sắp lễ được xây dựng bên cạnh chùa phục vụ cho bà con đến cầu, lễ. Trong chùa gồm đầy đủ các bộ gõ, cờ, các vật dụng dùng trong công tác thờ phụng. Bộ tượng tôn thờ được giữ nguyên trạng so với trước đây.

Chùa Nổi là địa điểm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng lâu đời của nhân dân địa phương và các vùng lân cận. Đây là một thiết chế quan trọng nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong giai đoạn hiện nay.

Chùa Nổi còn mang những giá trị lịch sử gắn liền với sự hình thành và phát triển vùng đất và các vùng lân cận. Vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp Chùa Nổi là nơi chứng kiến, điểm tập luyện, tuyên truyền cách mạng của du kích địa phương.

Các di vật phát hiện tại chùa như cá chép hóa rồng đã đánh dấu sự hình thành và phát triển phật giáo tại địa phương gắn liền với vùng văn hóa Châu Thu Vật và Châu Lục Yên.

Chùa Nổi, xã Đại Minh đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái cấp bằng chứng nhận đình là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo quyết định số 1117/QĐ-UB;16 /7/2014./.

 

Những điểm lân cận

Bản đồ